THÁNH THẤT THÁNH TỊNH CAO ĐÀI

Thánh Tịnh Bửu Quang Đàn


Địa chỉ: Xã Mỹ Lộc, Huyện Cần Giuộc, Long An (tục gọi là chùa Ông Đá).
Hội Thánh Cao Đài Tiên Thiên Long An Huyện Cần Giuộc

1buuquangdantti-httth       1buuquangdantti-httth2

Lược sử

Xã Mỹ Lộc, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An. Nơi đây xưa là khoảnh ruộng, có một tảng đá cao khoảng 0,5m, chu vi khoảng 2m, nằm ở phía nam cái bàu không sâu. Mặt trước tảng đá day về hướng đông nam, mặt sau đá day về hướng tây bắc, cách bờ ruộng khoảng 25m. Dân địa phương tin vào sự linh thiêng của đá, gọi là Ông Đá, thường xuyên đến khấn vái.

1922 (Nhâm Tuất): Ông Huỳnh Trung Nguyên (1885-1968) mua lại khoảnh ruộng này.

1946 (Bính Tuất): Ông Huỳnh Trung Nguyên chấp thuận cho ông đạo Bảy và ông Nguyễn Văn Đường (Chín Đường) cất một mái chùa nhỏ (1) trên khoảnh ruộng này. Mặt tiền chùa hướng về phía đông. Ông Đá đặt ở gian chính. Chùa được đặt tên là Thạch Đình Sơn Tự, nhưng dân gian thường gọi là chùa Ông Đá. Trong chùa lập linh vị thờ Thần Hoàng Bổn Cảnh, Sơn Thần, Thổ Địa Thần Kỳ.
Chùa cất xong, ông Nguyễn Văn Đường ở lại trông coi việc nhang đèn. Thầy lang Hai Huyền phụ giúp coi mạch, bốc thuốc làm phước thiện, kết hợp cúng cầu giải bệnh. Trong hai ba năm thường xuyên có nhiều người lui tới, chùa nổi tiếng linh ứng.(2)
Khi ông Nguyễn Văn Đường tạ thế, bà Huỳnh Thị Chơi nối tiếp việc coi sóc chùa.

1955 (Ất Mùi): Chùa hư hỏng nhiều. Thân phụ bà Huỳnh Thị Chơi là Giáo Hữu Huỳnh Văn Sửu (cai quản thánh thất Long Đức, ở ấp Long Đức, thuộc Hội Thánh Ban Chỉnh Đạo) công quả 100 đồng, và vận động tín đồ trong họ đạo quyên góp thêm. Trong khoảng 20 ngày, thu được 21.000 đồng.

Ông Huỳnh Trung Nguyên và ông Huỳnh Văn Sửu họp cùng các trưởng lão trong xã bàn việc cất lại chùa bằng cây, lợp ngói. Ông Huỳnh Trung Nguyên hiến 10 giạ lúa nuôi thợ. Chùa làm xong, phí tổn 29.000 đồng, tín đồ trong họ đạo quyên góp thêm 8.000 đồng bù vào. Bà Huỳnh Thị Chơi tiếp tục giữ chùa, mở phòng thuốc nam làm phước thiện và lớp dạy may, thêu miễn phí.
Trong một đàn cơ ở Cần Giờ, Đức Thái Thượng Lão Quân dạy đổi tên chùa Ông Đá thành thánh tịnh Bửu Quang Đàn. Nhân lễ đổi tên chùa, ông Huỳnh Trung Nguyên thỉnh bộ phận Hiệp Thiên Đài của Cơ Quan Cao Đài Thống Nhứt (bến Vân Đồn, quận 4, Sài Gòn) về lập đàn. Đức Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân ban cho ông Huỳnh Trung Nguyên bài thơ:

HUỲNH đình lo đạo, sử càng thanh,
TRUNG hiếu lo tròn đạo đức hanh.
NGUYÊN bổn tương lai tầm giáo lý,
Danh lưu muôn thuở đạo Nam thành.

Về sau, trong một đàn tại Tam Giáo Điện Minh Tân (Cơ Quan Cao Đài Thống Nhứt), Đức Thái Thượng Lão Quân ban cho thánh tịnh Bửu Quang Đàn bài thơ:

BỬU QUANG ĐÀN Thiên Tào đã định,
Đạo tâm lo chấn chỉnh quả công.
Chờ ngày dự hội mây rồng,
Công đầy quả đủ ngoài trong vẹn toàn.

Thánh tịnh Bửu Quang Đàn từ đây hợp tác chặt chẽ với Cơ Quan Cao Đài Thống Nhứt. Mỗi kỳ đàn cơ thường có hơn 100 đạo hữu hầu đàn. Bà Huỳnh Thị Thiết (thánh danh Thanh Trúc) tổ chức lớp huấn nghệ, hợp cùng Nữ Đoàn Đại Đạo dạy nghề may cho con em tại địa phương.

1957 (Đinh Dậu): Bầu ra Ban Cai Quản nhiệm kỳ 1, gồm có: ông Nguyễn Phú Thuần (Hội Trưởng); ông Huỳnh Trung Châu (thánh danh Thiên Châu Tinh); bà Huỳnh Thị Tào (thánh danh Ngọc Kỳ Hương); bà Huỳnh Thị Thiết (thánh danh Thanh Trước); bà Huỳnh Thị Tiền (thánh danh Ngọc Lý Hương).

1958 (MậuTuất): Thượng Giáo Sư Huỳnh Trung Nguyên hiến một mẫu đất ở khoảnh ruộng đã cát thánh tịnh.

22-8-1967 (17-7 Đinh Mùi): Thiếu người nối tiếp bà Huỳnh Thị Chơi thường xuyên coi sóc, thánh tịnh trở nên vắng vẻ. Sau khi giao phó việc nhà cho con cái, Ông Huỳnh Trung Nguyên về ở luôn tại thánh tịnh.

01-12-1968 (12-10 Mậu Thân): Thượng Giáo Sư Huỳnh Trung Nguyên quy thiên, thọ 84 tuổi.(3) Con gái ông là Huỳnh Thị Thiết (thánh danh Thanh Trước) thay cha trông coi thánh tịnh.

1970 (Canh Tuất): Ba gian thánh tịnh hư hỏng nặng. Ban Cai Quản họp bàn việc tái thiết. Ông Huỳnh Trung Châu (Thiên Châu Tinh) làm trưởng ban tái thiết.

21-7-1971 (29-5 Tân Hợi): Làm lễ trí thạch trước khi khởi công tái thiết thánh tịnh.

29-8-1971 (09-7 Tân Hợi): Khởi công tái thiết thánh tịnh.

19-7-1974 (01-6 Giáp Dần): Lạc thành thánh tịnh. Tổng kinh phí là 4.275.000 đồng, do tín đồ quyên góp.

1976 (Bính Thìn): Hội Trưởng Nguyễn Phú Thuần quy thiên. Bầu lại Ban Cai Quản nhiệm kỳ 2, ông Nguyễn Văn Tới làm Hội Trưởng.

1982 (Nhâm Tuất): Bà Huỳnh Thị Thiết (thánh danh Thanh Trước) quy thiên.

1987 (Đinh Mão): Hội Trưởng Nguyễn Văn Tới quy thiên. Giáo sư Huỳnh Trung Châu (thánh danh Thiên Châu Tinh) tạm thời cai quản thánh tịnh.

1993 (Quý Dậu): Ban Cai Quản nhiệm kỳ 3 gồm có: Hội Trưởng: ông Huỳnh Trung Luu; Hội Phó: ông Trương Văn Nhiên, và bà Võ Thị Thảo.

16-9-1997 (15-8 Đinh Sửu): Bổn đạo thánh tịnh Bửu Quang Đàn đồng thuận hoàn nguyên về Hội Thánh Cao Đài Tiên Thiên.

13-11-1997 (14-10 Đinh Sửu): Đạo lịnh số 19/BĐL của Thượng Hội Hội Thánh Cao Đài Tiên Thiên chính thức thu nhận thánh tịnh Bửu Quang Đàn.

22-12-1997 (23-11 Đinh Sửu): Ban Cai Quản và Ban Trị Sự nhiệm kỳ (1997-2002) gồm có:

Ban Cai Quản: Hội Trưởng: ông Huỳnh Trung Lưu; Hội Phó: ông Trương văn Nhiên, và bà Võ Thị Thảo.

Ban Trị Sự: Chánh Trị Sự: ông Võ Bá Đảnh; Phó Trị Sự: ông Nguyễn Đức Đạt, bà Huỳnh Kim Hoa, bà Phạm Thị Năm, và bà Võ Thị Tám.(4)

Ghi chú: (1) Lúc đầu chùa có hai gian, mấy năm sau vì hư dột, khi sửa chữa đã mở thêm thành ba gian.

(2) Đại hồng chung hiện nay nguyên là lễ tạ ơn của ông bà Mười On sau khi cầu tự ứng nghiệm.

(3) Thượng Giáo Sư Huỳnh Trung Nguyên đắc vị Chánh Giác Chơn Tiên, những năm 1970-1974 có giáng cơ tại thánh tịnh Bửu Quang Đàn và Tam Giáo Điện Minh Tân.

(4) Chân thành cảm tạ hiền huynh Hội Trưởng Huỳnh Trung Lưu và hiền huynh Chánh Trị Sự Võ Bá Đảnh ngày 15-11-1998 đã trợ giúp tài liệu.